Thứ Bảy, 17 tháng 4, 2010

Viêm lợi dễ khiến bà bầu đẻ non

viem loi Viêm lợi dễ khiến bà bầu đẻ nonPhụ nữ mang thai nếu không được điều trị dứt điểm bệnh về răng lợi thì có nguy cơ đẻ non trước 35 tuần cao gấp 3 lần so với bình thường, các nhà khoa học Mỹ tuyên bố.

Việc điều trị dứt điểm bệnh răng lợi sẽ giúp giảm đáng kể nguy cơ sinh non này.

Đây là kết quả nghiên cứu của Hiệp hội nghiên cứu về răng miệng của Mỹ tiến hành với 160 phụ nữ mang thai từ 6 đến 20 tuần. Tất cả đều mắc bệnh về răng lợi và 1/3 trong số đó đã được điều trị thành công.

Các bác sĩ đã chỉ ra mối liên hệ mật thiết giữa việc điều trị thành công bệnh răng miệng với việc sinh con đủ tháng của phụ nữ. Theo nghiên cứu, việc nhiễm trùng nướu sẽ làm gia tăng quá trình sản xuất prostaglandin và các yếu tố gây hoại tử u – những chất gây ra cơn đau đẻ. Điều này dẫn đến khả năng sinh sớm ở phụ nữ.

Dù cho rằng kết luận này còn nhiều tranh cãi, nhưng các chuyên gia vẫn khuyên những phụ đang mang thai nên chú ý chăm sóc răng và lợi cẩn thận.

Iain Chapple, giáo sư của Trường Nha khoa Birmingham cho rằng vấn đề này vẫn còn gây tranh cãi. Bởi trong những cuộc nghiên cứu được tiến hành trước đó, một số chỉ ra mối liên hệ giữa bệnh răng lợi và khả năng sinh con sớm, trong khi số khác thì không.

Trong khi đó, giáo sư Nigel Carter, Giám đốc Tổ chức sức khỏe về Răng miệng của Anh lại cho rằng, kết quả trên đã bổ sung thêm bằng chứng cho thấy mối liên hệ giữa bệnh răng lợi và khả năng sinh con sớm. “Nó nhắc nhở những phụ nữ mang thai cần quan tâm hơn tới sức khỏe răng lợi của mình trong suốt quá trình đó, và chấp nhận những biện pháp điều trị nếu muốn tránh rủi ro sinh con sớm”, ông nhấn mạnh.

Hồng Ngân (vnexpress)

Nguyên nhân gây sâu răng và cách chữa

sau rang Nguyên nhân gây sâu răng và cách chữaSâu răng là bệnh rất phổ biến, có thể gặp ở mọi lứa tuổi (từ những trẻ răng sữa cho đến người già).

Ngoài việc gây đau nhức và những biến chứng viêm tuỷ, viêm quanh chân răng, sâu răng còn gây ra những cản trở về giao tiếp như hơi thở hôi, ngả màu men răng… Vì thế cần có những hiểu biết để phòng ngừa và điều trị sớm nếu mắc bệnh.

Thế nào là bị sâu răng?

Răng bị sâu khác với bộ phận khác bị tổn thương, vì đây là một quá trình và là một bộ phận duy nhất trong cơ thể không có khả năng tự phục hồi, phải chữa trị. Thông thường sâu răng phát triển liên tục từ lớp nông đến lớp sâu của răng.

Triệu chứng ban đầu là răng đổi màu, lúc này người bệnh chưa cảm thấy gì, lỗ sâu răng chưa có và kích thích do thức ăn nóng, lạnh chưa xảy ra.

Một thời gian sau, răng biến đổi sang màu nâu hoặc màu đen. Lỗ sâu ở răng xuất hiện, người bệnh cảm thấy khó chịu khi thức ăn giắt vào lỗ sâu, cảm thấy buốt khi ăn thức ăn nóng, lạnh, đau do thức ăn nóng giắt vào.

Nếu lỗ sâu tiếp tục bị sâu thì phần đáy lỗ bị bong calcium và mềm hoá, nhiễm vào tầng sâu của răng, làm cho bệnh nặng hơn. Khi răng đau kéo dài, hoặc mức độ đau gia tăng thì rất có thể tuỷ răng đã bị viêm. Bên cạnh đó, khi bị sâu răng, hơi thở của người bệnh còn có mùi hôi.

Những nguyên nhân gây đau răng

Người ta nói rằng có 4 nguyên tố như một chuỗi liên hoàn gây ra sâu răng là vi khuẩn bám vào mặt răng và có khả năng gây sâu răng. Chúng sản sinh và tiết ra chất hữu cơ, plyore, enzyme thuỷ phân chất lòng trắng trứng (một thành phần trong nước miếng), những chất đó có thể hoà tan chất hữu cơ và phân huỷ chất vô cơ của kết cấu răng. Các vi khuẩn này bám vào răng hình thành các đốm khuẩn, đến lượt các đốm khuẩn này phát triển tấn công răng.

Khả năng chống sâu của răng tuỳ thuộc vào trạng thái kết cấu của răng. Hàm răng không bị sứt mẻ, không khiếm khuyết, mọc thẳng hàng, thẳng lối, men răng trắng bóng, mức khoáng hoá răng cao là những yếu tố quan trọng chống lại các tác nhân gây sâu răng. Ngược lại, các yếu tố này không hoàn chỉnh thì nguy cơ sâu răng là rất lớn.

Sự gây ra sâu răng của thức ăn được nhắc đến nhiều nhất là đường, là cơ sở quan trọng để vi khuẩn bám vào đó sinh sôi nảy nở, nhất là ăn nhiều đường, ăn đồ ngọt, không đánh răng trước khi đi ngủ. Các gợn thức ăn còn bám vào các kẽ răng, nếu không đánh răng thường xuyên hoặc không lấy cao răng định kỳ cũng sẽ làm môi trường thuận lợi cho vi khuẩn gây sâu răng phát triển.

Quá trình từ răng mới sâu đến khi hình thành lỗ sâu phải trải qua một thời gian, nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào sự vệ sinh, khả năng chống sâu của từng người và cũng phụ thuộc vào mức độ vi khuẩn nhiều hay ít. Người ta cho rằng từ lúc xuất hiện các đốm răng cho đến khi hình thành lỗ sâu có thể đến 1,5 năm, trong thời gian đó rất cần được điều trị kịp thời.

Điều trị sâu răng như thế nào?

Dùng thuốc điều trị cho những trường hợp mới chớm sâu, chưa hình thành lỗ. Thuốc dùng thường là chấm vào chỗ bị sâu, đây là dung dịch có tính sát khuẩn. Phương pháp này chỉ dùng cho những chỗ sâu của răng nghiền phía sau vì dễ gây đổi màu men răng.

Biện pháp nạo bỏ phần răng bị sâu, áp dụng cho mọi lỗ sâu răng, nhất là lỗ sâu rộng, nhằm ngăn chặn sự phát triển tiếp theo của răng sâu.

Biện pháp tái khoáng phần bị sâu, dùng dung dịch gồm các chất cacium, phosphate, florinê đổ vào nơi răng bị sâu. Phương pháp này áp dụng cho trường hợp răng mới chớm sâu, có khả năng thu hẹp vùng có màu trắng vôi hoặc vùng đó ngừng phát triển. Đây là phương pháp tái khoáng đơn giản, hiệu quả, không đau và an toàn.

Hàn vá lỗ sâu là phương pháp thường nhật để chữa sâu răng, áp dụng đối với răng có khả năng định vị sau khi bị sâu. Khi hàn vá sử dụng chất liệu hàn vá vào chỗ khuyết của răng, khôi phục tính năng của răng, nhằm giữ được thẩm mỹ và chức năng cho hàm răng.

Phòng bệnh sâu răng

Trước hết phải vệ sinh rằng miệng sau khi ăn, trước khi đi ngủ. Hạn chế ăn thức ăn chứa nhiều đường. Trẻ em thời kỳ mọc răng, thay răng càng phải đặc biệt quan tâm đến hàm răng, như cho trẻ ăn đủ chất tạo răng, đánh răng và dạy cho trẻ biết đánh răng cho mình.

Dùng kem đánh răng có chứa florine, có thể dùng thêm nước súc miệng, diệt khuẩn sau bữa ăn. Những phụ nữ mang thai cần bổ sung calcium để trẻ sinh ra không bị thiếu chất tạo răng. Mọi người cũng cần khám răng định kỳ 6 tháng/lần để kịp thời phát hiện những biến đổi của răng, có các biện pháp điều trị phù hợp.
(Theo SK&ĐS)

Viêm nướu là gì? Nhóm Vi Khuẩn nào thường kết hợp với viêm nướu?

viem nuou Viêm nướu là gì? Nhóm Vi Khuẩn nào thường kết hợp với viêm nướu?Viêm nướu:

* Là sự viêm nhiễm của nướu
* Là bệnh thường gặp nhất
* Là bệnh có khả năng hồi phục

Nguyên nhân do vi khuẩn trong mảng bám

Nhóm Vi Khuẩn thường kết hợp với viêm nướu:

Là xoắn khuẩn

Thuật ngữ nào được dùng để mô tả nướu viêm?

* Từ khóa là viêm, và dấu hiệu chủ yếu của viêm là sưng – nóng – đỏ – đau. Tất cả đều có thể dùng để chỉ tình trạng nướu viêm.
* Bờ viền nướu tròn, nướu tấy đỏ và phù nề. Mất lấm tấm da cam và nướu được mô tả là mềm bở.

(BS Phạm Việt Hùng nhakhoathammy.com.vn)

Bị tụt lợi, chữa được không?

bi tut loi Bị tụt lợi, chữa được không? Răng của tôi gần đây cứ mỗi lần đánh răng là chảy máu, lợi bị tụt nhiều trông rất xấu. Xin hỏi bác sĩ tụt lợi có nguy hiểm không, có cách nào chữa được không? (Nghiêm Thị Tuyến – Quảng Ninh)

- Thường xuyên bị chảy máu răng khi đánh răng, rất có thể bạn đã bị viêm lợi, viêm quanh răng. Đây là nguyên nhân thường gặp dẫn đến tụt lợi. Khi lợi bị tụt sẽ làm lộ chân răng, mòn tổ chức cứng của răng, làm cho răng bị ê buốt và rất mất thẩm mỹ. Nếu không được điều trị sẽ dẫn đến viêm tủy răng, thậm chí rụng răng sớm.

Bạn nên đi khám ở các chuyên khoa răng hàm mặt để điều trị các bệnh lý gây tụt lợi như viêm lợi, viêm nha chu. Mặt khác, để khắc phục tình trạng này, bạn nên chọn bàn chải mềm và dùng nước ấm để đánh răng, đồng thời nên dùng nước súc miệng được khuyến cáo cho người bị tụt lợi và các bệnh viêm quanh răng khác.

Hiện nay người ta có thể dùng thuốc bôi, dùng laser kết hợp với thuốc bôi hoặc thậm chí là phẫu thuật để khắc phục hậu quả thẩm mỹ của tụt lợi. Bạn nên đi khám bệnh sớm ở bác sĩ nha khoa để được chỉ định điều trị đúng.

Theo BS NGUYỄN TRỌNG LÂN – Sức khỏe & đời sống

Các phương pháp điều trị co lợi

phuong phap dieu tri loi Các phương pháp điều trị co lợiCo lợi hay tụt lợi, tụt nướu là quá trình lộ bề mặt chân răng do sự di chuyển về phía chóp chân răng của lợi. Tụt lợi là điềm báo trước sự mất cement chân răng (xương ổ chân răng), lộ ngà, tăng cảm giác và giảm thẩm mỹ. Hiện nay có nhiều phương pháp hiệu quả điều trị co lợi, trong đó phải kể đến nhiều nhất là phẫu thuật ghép tổ chức liên kết dưới biểu mô, sau đó là ghép lợi tự do và sử dụng vạt tại chỗ.

Co lợi gây ra hậu quả gì ?

Co lợi do nhiều nguyên nhân gây ra, có thể là do chải răng sai kỹ thuật nhưng cũng có thể do bệnh lý như viêm lợi, viêm quanh răng… hoặc cũng có thể tổn thương lợi do virut. Một số răng có vùng lợi bám dính hẹp, nếu vùng lợi bám dính này giảm đi do co lợi sẽ không còn lợi che phủ và bảo vệ cổ răng, cổ răng và chân răng sẽ bị mòn do sang chấn từ bàn chải và thức ăn vì xương ổ răng mặt ngoài thường mỏng, loại bàn chải và kỹ thuật chải răng sẽ quyết định mức độ mòn tổ chức cứng của răng. Ngoài ra, lợi tụt làm hở chân răng, đối với các răng cửa và răng nanh sẽ giảm thẩm mỹ.

Các phương pháp điều trị co lợi hiệu quả

Phương pháp ghép tổ chức liên kết dưới biểu mô

Khi thực hiện phương pháp này, vùng co lợi sẽ được sát khuẩn bằng betadin pha loãng với nước muối. Gây tê tại chỗ bằng lidocaine 2%.

* Vùng nhận tổ chức (vùng co lợi) được tạo vạt bao gồm hai đường rạch: đường rạch nhú lợi và đường rạch rãnh lợi. Vùng co lợi được nạo sạch tổ chức hạt, mảng bám, cao răng, phần mềm còn sót lại sau khi lật vạt. Vùng co lợi được đo kích thước bằng dụng cụ đo có vạch (periodontal probe) sao cho đường viền vùng nhận nằm tiếp giáp rìa men răng, đường viền đối diện nằm quá mào xương ổ răng khoảng 3 mm, đường viền gần và xa nằm quá ranh giới hở chân răng 3mm. Vùng cho tổ chức cũng được sát khuẩn và gây tê tại chỗ. Dùng dụng cụ đo đánh dấu vùng cho tổ chức trong khoảng từ răng nanh tới mặt gần răng số 6, cách bờ lợi 3 – 5mm, đánh dấu 3 đường rạch: 1 đường rạch song song bờ lợi, 2 đường rạch vuông góc bờ lợi, rạch và bóc tách lấy tổ chức liên kết theo kiểu mở miệng túi ở vùng hàm ếch đã đánh dấu: dùng lưỡi dao 15 bóc lớp tổ chức biểu mô và tổ chức liên kết dày 1,5mm. Tiếp tục bóc lớp tổ chức liên kết bên dưới bằng lưỡi dao 15 và cây bóc tách, bóc một lớp dày đồng đều khoảng 1,5mm, nếu không đủ dày có thể bóc cả màng xương, miếng ghép sau khi lấy ra được đặt lên gạc nước muối sinh lý. Miệng túi được khâu bằng chỉ polypropylen mũi rời và khâu treo sau khi phẫu thuật vùng nhận mảnh ghép kết thúc.

* Vùng nhận mảnh ghép được chuẩn bị để nhận mảnh ghép như sau: Bề mặt chân răng hở được làm phẳng ngang mức với xương ổ răng bằng mũi khoan hoàn tất. Bề mặt chân răng hở được bôi axit citric bão hòa trong 5 phút sau đó rửa sạch bằng nước muối sinh lý. Miếng tổ chức liên kết được đặt lên vùng nhận, khâu chỉ polypropylene mũi rời và mũi treo quanh cổ răng để cố định mảnh ghép, lật vạt phần mềm tại chỗ phủ tối đa miếng ghép rồi khâu mép vạt lợi. Ép gạc nước muối lên vùng phẫu thuật trong khoảng 3 phút để tránh khoảng chết phía dưới mảnh ghép và khoảng chết giữa mảnh ghép và vạt lợi. Đặt xi măng nha khoa che phủ vùng phẫu thuật.

* Ghép vạt tổ chức liên kết dưới biểu mô có những ưu điểm sau: có thể áp dụng cho co lợi đơn lẻ và co lợi nhiều răng, áp dụng được cho các trường hợp co lợi hẹp (nhỏ hơn 3mm) và co lợi rộng (hơn 3mm), không phụ thuộc vào độ sâu ngách lợi, không phụ thuộc vào tổ chức phần mềm lân cận. Tuy nhiên loại vạt này có nhược điểm là kỹ thuật phức tạp hơn các phương pháp khác vì phải bóc một lớp tổ chức liên kết ở vùng hàm ếch, thời gian phẫu thuật kéo dài hơn các phương pháp khác.

Sau phẫu thuật, người bệnh cần chú ý:

* Để tránh va chạm có thể làm bong vạt lợi và mảnh ghép: bệnh nhân phải ăn mềm trong 1 tuần, không chải răng vào vùng phẫu thuật trong 2 tuần đầu tiên, chỉ làm sạch nhẹ nhàng bằng tăm bông và nước betadin pha loãng với nước muối sinh lý phun rửa qua bơm tiêm. Từ tuần thứ 2, bệnh nhân chải răng nhẹ nhàng bằng bàn chải rất mềm. Bệnh nhân khám vào ngày thứ 2, 7, tháo băng nha chu và cắt chỉ vào ngày thứ 7. Uống thuốc kháng sinh, giảm đau, chống phù nề trong 1 tuần theo chỉ định của thầy thuốc chuyên khoa.

Phương pháp dùng vạt tại chỗ

* Đây có thể là vạt xoay hoặc vạt đẩy. Nguyên tắc là dùng phần mềm ở bên cạnh che phủ chân răng bị hở. Phương pháp phẫu thuật được minh họa (xem hình trên).

Phương pháp ghép lợi tự do

Phương pháp này sử dụng một mảnh niêm mạc vòm miệng để che phủ chân răng co lợi.

ThS. Lê Long Nghĩa(Đại học Y Hà Nội)-SKĐS

Mục đích của chữa tủy răng

chua tuy rang Mục đích của chữa tủy răngMục đích của phương pháp chữa tủy răng là để bảo tồn răng:

- Chữa cho răng hết đau và vĩnh viễn không đau

- Chữa trị để răng hết nhiễm trùng và không bi nhiễn trùng.

- Không bị nhổ răng, vì nhổ răng rất oan uổng trong khi còn có thể giữ được.

- Để làm răng giả, phục hình răng, làm cầu răng để tái tạo sức nhai

Chữa nội nha là phương pháp chữa răng khó, Các Bác sĩ Răng Hàm Mặt được đào tạo từ trường ĐH nha khoa, các BS CKI, CKII, thạc sĩ được đào tạo chuyên khoa sâu và kinh nghiệm nhiều năm mới được phép làm.

Ở Mỹ những trường hợp chữa tủy răng khó (răng nhiều chân và ống tủy cong, dị dạng) đều phải chuyển cho các BS specialist (Chuyên về nội nha, endodontist), giống như các phẫu thuật khó về răng miệng phải chuyển cho các BS chuyên về Phẩu Thuật Nha công, thợ trồng răng và Y sĩ RHM không được thực hành nội nha trên bệnh nhân.

Bs.Trần Ngọc Đỉnh

Làm sao chữa được bệnh nha chu?

nha chu2 Làm sao chữa được bệnh nha chu? Chữa bệnh nha chu viêm tức là phòng bệnh ngay từ đầu:

- Đừng để vôi răng gây viêm nướu,

- Đừng để nha chu qua giai có túi nướu (Pockets)

- Đừng để bệnh nha chu tiến triển sang đoạn 3 (tiêu xương ổ răng là răng bị lung lay) sẽ khó hồi phục.

* Tóm lại vũ khí để chống lại bệnh nha chu chính là bàn chải răng và chỉ tơ nha khoa (dental floss).

Bệnh nha chu không phải ai cũng biết, ngay cả các BS Y khoa có khi cũng chưa hiểu rõ về căn bệnh nầy vì trong chương trình học, chuyên khoa RHM là chuyên khoa sâu, sinh viên Y Khoa chỉ học qua cho biết cũng như cưởi ngựa xem hoa vì vậy việc chăm sóc răng miệng ,

6 tháng phải cạo vôi răng một lần, sử dụng chỉ tơ nha khoa đó là những điều mà ít khi bệnh nhân chú ý đến

Bệnh nha chu rất dễ phòng ngừa, nếu bạn giữ răng miệng sạch sẽ thì không bao giờ sợ bệnh nha chu. Trong khi bệnh sâu răng khó hơn, bạn đã chải răng sạch, chăm sóc răng rất kỹ nhưng chỉ làm giảm sâu răng chứ không hoàn toàn hết sâu răng.

Bs.Trần Ngọc Đỉnh